- Địa chỉ: Xóm Hồng Phong, xã Giai Lạc, tỉnh Nghệ An: https://maps.app.goo.gl/H5bXkCZfTXrMP9Kn6
- Điện thoại liên hệ: Đồng chí Nguyễn Xuân Trung – Trưởng Ban quản lý di tích Đền Đức Hoàng: 0966565696
- Đặt lịch cúng tại di tích Đền Đức Hoàng: Ông Nguyễn Văn Tập – Thầy cúng: 0357590841 hoặc liên hệ Bà Nguyễn Thị Hằng – Phó Ban quản lý Di tích Đền Đức Hoàng: 0977611129
Lịch sử và tài nguyên, giá trị nổi bật
của Đền Đức Hoàng
Đền Đức
Hoàng được xây dựng giữa một rừng lim rậm rạp ven hồ Diệu Ốc hay còn được gọi
là Đầm Thủy Ô, Bàu Ác, Diệu Ốc liên đàm, cạnh chùa Thung Viên Thanh Tịch. Nơi
đây là một trong tám cảnh đẹp nhất của Đông Thành nhị huyện xưa - "Đông Thành bát cảnh" và đã được nhiều sử gia có tên tuổi ghi chép
lại. Đông Thành nhị huyện gồm huyện Yên Thành và huyện Diễn Châu; bát cảnh là: Dạ Sơn linh tích - Tích thiêng núi Mộ Dạ,
Cao Xá long cô - Gò rồng ở Cao Xá, Bùng giang thu nguyệt - Trăng thu sông
Bùng, Bích Hải quy phàm - Thuyền về
trên bến Bích Hải, Thiên uy thiết cảng
- Kênh sắt oai trời, Diễn Thành thạch bảo
- Thành đá phủ Diễn Châu, Diệu Ốc liên
đàm - Đầm sen Diệu Ốc và Thứu lĩnh
xuân phân - Mây mù trên Rú Gám. Trong đó có 6 cảnh thuộc huyện Diễn Châu, 2
cảnh của huyện Yên Thành là Thứu lĩnh xuân phân và Diệu Ốc liên đàm. Có thể nói
rằng, phong cảnh ở đây về mùa nào cũng đẹp nhưng thi vị hơn cả vẫn là về mùa
hè, nhất là vào thời kì sen nở, phong cảnh nơi đây đẹp tựa một bức tranh thủy mạc
giàu màu sắc. Và trong bức tranh ấy thấp thoáng một ngôi đền cổ giữa cảnh non
xanh nước biếc, hòa quyện cùng thiên nhiên tạo cho ta có cảm giác thư thái, nhẹ
nhàng và thanh thoát đến nao lòng nhưng đến nay thì đã không còn được như vậy nữa.
Cảnh quan cũ cũng đã thay đổi như ngôi chùa không còn, rừng lim cổ thụ nay cũng
thưa thớt hơn để nhường cho những loài thực vật khác. Tuy vậy hiện nay ngôi đền
vẫn có một cảnh quan rất đẹp, thu hút được đông đảo du khách đến viếng thăm.

Đền được
khởi công xây dựng từ thời Trần, nhưng lúc đó chỉ là một ngôi miếu nhỏ đơn sơ.
Đến năm 1505 mới bắt đầu được xây tường lợp ngói tòa thượng điện, năm 1882 xây
thêm nhà Trung điện và đến năm 1936 thì xây thêm nhà Hạ điện, phía ngoài có trụ
cổng và tường thành bao quanh. Từ khi xây dựng đến nay, chắc chắn di tích đã được
tu sửa nhiều lần nhưng tài liệu chỉ ghi chép lại 2 lần sửa chữa. Lần 1 vào năm
1907, tu sửa Thượng điện và sơn sửa lại đồ tế khí; Lần 2: Vào năm 1908, trùng
tu Trung điện; Năm 1990, Đảng ủy, UBND xã Phúc Thành đã chủ trương cho nhân dân
tu bổ, sửa sang lại di tích. Nhìn chung, hiện nay có một số đồ tế khí, và một số
bộ phận kiến trúc đã bị mất mát như đạo sắc do Lê Lợi phong, tường bao quanh di
tích và một số bộ phận bị hư hỏng như cổng vào di tích nhưng vẫn giữ được kiên
trúc cơ bản ban đầu. Các điểm tham quan của chúng ta tại di tích gồm cổng đền,
sân ngoài, sân trong, nhà Thượng điện, nhà Hạ điện và nhà Trung điện. Trải qua thời gian, thiên tai, chiến tranh và tu sửa
đền Đức Hoàng vẫn giữ được những nét cổ kính, linh thiêng. Quy mô các công trình vừa phải, kết cấu gọn nhẹ, hợp
lý, cân đối, tạo thành một khối liên kết vững chắc, đáp ứng được yêu cầu của một
công trình kiến trúc có thể vững bền với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại nhà thờ còn lưu giữ được nhiều hiện vật cổ,
quý, có giá trị về mặt điêu khắc nghệ thuật chủ yếu tập trung vào các hiện vật
như: Hương án, biển gỗ, long ngai, bài vị, khám thờ... đây là những văn bản gốc, là những tài liệu vô cùng quý
giá phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử địa phương và ngành địa phương học,
phong tục học.

Một trong những nét đặc sắc của di tích
Đền Đức Hoàng chính là giá trị lịch sử-văn hóa gắn với tín ngưỡng dân tộc, thờ
các vị anh hùng, có công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Du
khách được thả hồn vào đời sống tâm linh, cầu mong cho sự bình an, sức khỏe,
công danh, hạnh phúc, thịnh vượng…
Nhân vật
thờ chính tại đền là Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn - một vị tướng có công
trong cuộc chiến chống giặc Nguyên Mông ở thế kỷ XIII, mang lại thái bình cho đất
nước, cho dân tộc. Không chỉ có vậy, ông còn có công lớn trong việc chiêu dân,
khai khẩn đất đai, lập làng, mở trường dạy học, dạy cho dân biết làm ruộng,...
nên ông đã được nhân dân tôn làm Thành hoàng.

Vào những
năm cuối thế kỷ thứ XIII, trong lúc nhân dân Đại Việt đang ra sức đẩy mạnh công
cuộc xây dựng đất nước thì những đội quân viễn chinh khét tiếng tàn bạo của
quân vua chúa Mông Cổ đang tung hoành trên khắp các lục địa Á, Âu, gây nên bao
cảnh đau thương, đổ nát. Đến đầu năm 1258, đội quân hung hãn ấy chính thức đổ
quân vào xâm lược nước ta. Trước cảnh xâm lăng của kẻ thù, trước sự sống còn của
dân tộc, dưới sự lãnh đạo của triều Trần, cả nước Đại Việt gấp rút bắt tay vào
chuẩn bị kháng chiến và cuối cùng đã giành thắng lợi vẻ vang, âm mưu thôn tính
nước Đại Việt ta của quân Nguyên Mông đã bị đập tan. Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc
ấy, Yên Thành trở thành lỵ sở Châu Diễn, là hậu cứ vững chắc của nhà Trần trong
ba lần đánh giặc Nguyên Mông. Mảnh đất này là kho người, kho của, là niềm tin,
là chỗ dựa cho Vua tôi nhà Trần. Nhiều con em quê hương Yên Thành đã gia nhập
nghĩa quân góp phần đánh thắng quân Nguyên Mông, đến nay sử sách vẫn còn ghi.
Tiêu biểu cho lớp người có công đóng góp trong cuộc chiến tranh ấy phải kể đến
Hoàng Tá Thốn, tự Hoàng Minh, mỹ hiệu Tô Đại Liêu.
Theo văn
bia "Nam miếu tôn thần sự tích"
do ông Cao Xuân Dục - Tổng tài quốc sử quán triều Nguyễn viết năm 1899 và theo
gia phả họ Hoàng, cùng thần tích đền Sát Hải Đại vương ở thôn Vạn Tràng thì
Hoàng Tá Thốn sinh năm Giáp Dần - 1254, vào đời vua Trần Thái Tông, trong một
gia đình làm nghề chài lưới ở thôn Vạn Phần, xã Diễn Vạn, huyện Đông Thành, nay
thuộc xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Chưa thấy tài liệu nào ghi lại
cha ông là ai nhưng thân mẫu của ông là một phụ nữ họ Trương, gốc ở làng Lý
Trai, nay là xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu. Trong huyền thoại xứ Nghệ vẫn truyền
lại rằng: "Một buổi sớm Trương phu
nhân ra sông gánh nước, bỗng thấy 2 con trâu bạc từ dưới nước lao lên húc nhau,
rồi chúng xông vào bà. Hoảng quá, bà lấy đòn gánh để xua chúng, tự nhiên 2 con
trâu biến mất, nhưng có một chiếc lông đã dính vào đòn gánh rồi rơi xuống thùng
nước của bà. Bà uống phải, tức thì thấy trong người khác thường, từ đó bà mang
thai. Đến tháng, đến ngày bà sinh được một cậu bé khôi ngô tuấn tú, có diện mạo
khác thường và bà đặt tên cho con mình là Hoàng Tá Thốn. Hoàng Tá Thốn càng lớn
càng khỏe mạnh, có sức khỏe hơn người, ham mê luyện tập võ nghệ, ông vật rất giỏi,
trai làng không ai địch nổi và đặc biệt là, dù chỉ mới lên 9 - 10 tuổi nhưng đã
bơi rất giỏi. Ông có thể lặn dưới nước hàng giờ và đi lại trong nước như người
đi bộ trên không". Dân gian cũng truyền lại rằng, do có lòng thương
người, lại bơi rất giỏi nên mỗi khi có sóng to, gió lớn bất ngờ, ông đều ra tay
cứu giúp những ngư dân gặp nạn. Vì vậy, tiếng tăm của ông không những vang khắp
vùng dân cư ven sông mà còn vang đến tận kinh thành.
.jpg)
Cuộc sống
bình yên của Hoàng Tá Thốn trên bến sông không kéo dài được bao lâu, năm 1258,
khi Hoàng Tá Thốn bước vào tuổi trưởng thành cũng là lúc giặc Nguyên Mông kéo
sang xâm lược nước ta. Đứng trước họa xâm lăng, triều Trần đã tổ chức "Hội nghị Diên Hồng" nhằm đưa
ra kế sách đúng đắn và kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh đuổi giặc, giữ
vững độc lập cho nước nhà. Triều đình có chủ trương: Một mặt giữ mối bang giao
hòa hảo với các nước láng giềng, một mặt giảm sưu thuế, khuyến khích khai cơ mở
đất lập làng, cho các làng kê khai hộ khẩu, đất đai để quản lý người và tài sản,
từ đó chọn ra những trai tráng xung vào quân đội. Sau khi được huấn luyện, triều
đình giữ lại những người khỏe mạnh, tài ba, giỏi võ nghệ làm quân thường trực,
số còn lại cho về quê làm ăn, khi có chiến tranh thì thì sẽ điều động đi lính.
Nghe
theo lời kêu gọi cứu nước của các bô lão, của triều đình, Hoàng Tá Thốn rời quê
hương lên đường ra Thăng Long nhập ngũ. Sau một thời gian luyện tập, Hoàng Tá
Thốn được xung vào đội bộ bộ binh.
Năm
1285, giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 2, Hoàng Tá Thốn được sung vào
đội thủy quân thiện chiến của nhà Trần. Thấy Hoàng Tá Thốn là người có tài, có
đức, dung mạo lại khác thường, nên Trần Hưng Đạo đã chuyển ông về làm "Nội gia thư" - một chức võ
quan tin cẩn của Trần Hưng Đạo và được huấn luyện thêm về binh thư, binh pháp để
giúp việc binh thư.
Là người
khỏe mạnh, giỏi võ nghệ, lại có tài bơi lội, quen cảnh sông nước nên trong cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần 2 này, Hoàng Tá Thốn luôn tỏ ra
là một vị tướng tài ba, sắc sảo, đã nhiều lần lập chiến công lớn, góp phần đưa
cuộc kháng chiến nhanh chóng đi đến thắng lợi.
Năm
1288, quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ 3 với một lực lượng hùng hậu.
Trong cuộc kháng chiến này, Hoàng Tá Thốn được giao một trọng trách lớn là thống
lĩnh hàng vạn quân thủy và tàu thuyền. Nhờ vào sự lãnh đạo tài tình về quân sự
của Trần Quốc Tuấn, cùng với sự chiến đấu nhịp nhàng giữa bộ binh và thủy binh
ta, nên chỉ trong một thời gian ngắn, quân Nguyên phải tìm đưởng rút lui. Nắm
được ý đồ của giặc, Trần Hưng Đạo đã nhanh chóng cho bày trận trên sông Bach Đằng
để chặn đánh địch. Lợi dụng thủy triều, Trần Hưng Đạo đã cho đóng cọc bằng gỗ
lim, đầu cọc được đẽo nhọn và bịt sắt xuống giữa lòng sông Bạch Đằng. Đội bộ
binh mai phục hai bên bờ, đội thủy binh của Hoàng Tá Thốn thì ẩn nấp trong bụi
lau sậy và các kênh rạch hai bên bờ sông. Hẳn quý khách còn nhớ trận đánh mang
lại chiến thắng oanh liệt cho quân, tướng nhà Trần được lưu trong sử sách. Đó
là ngày 9 tháng 4 năm 1288 được, khi đoàn chiến thuyền của tướng giặc Ô Mã Nhi
và Phàn Tiếp chỉ huy đã đến cửa sông Bạch Đằng, bấy giờ nước thủy triều còn
dâng cao nên bãi cọc vẫn chìm dưới nước, một tốp thủy quân của ta đem thuyền ra
khiêu chiến rồi giả vờ thua bỏ chạy sâu vào trong. Ô Mã Nhi tưởng quân ta thua
thật liền cho quân đuổi theo. Khi thuyền địch lọt vào trận địa mai phục của
quân ta cũng là lúc nước thủy triều xuống, quân ta từ các phía đổ ập vào đánh
làm cho quân địch không kịp trở tay. Trận chiến diễn ra hết sức ác liệt, từ tờ
mờ sáng đến tận chiều tối mới kết thúc. Kết quả là quân ta đại thắng, phá được
lực lượng quân chủ lực của giặc Nguyên Mông, vô số quân giặc bị vùi xác dưới
đáy sông, nhiều tướng giặc bị bắt như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và thu được 400 chiến
thuyền của giặc. Tin thắng lợi về triều, vua Trần Nhân Tông đã phong cho Hoàng
Tá Thốn là "Sát Hải, chàng lại Đại tướng quân" thống lĩnh quân đội
phòng giữ vùng duyên hải.
Chiến
tranh kết thúc thắng lợi nhưng nhà Nguyên vẫn ỷ thế nước lớn, đưa ra nhiều yêu
sách ngang ngược, họ đòi thả Ô Mã Nhi bằng được và nếu có mệnh hệ gì thì vua
tôi nhà Trần phải bồi hoàn. Nhưng với những tội ác mà Ô Mã Nhi đã gây ra cho
nhân dân Đại Việt, nhà Trần đã cương quyết không để chúng được trở về chính quốc
an toàn, mà buộc y phải đền tội bằng một diệu kế hết sức khôn khéo của Hưng Đạo
Vương và người thực hiện kế hoạch đó chính là Sát Hải chàng lại đại tướng quân
Hoàng Tá Thốn. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: "Kỷ Sửu - 1289, năm thứ 5 đời vua Trần Nhân Tông, mùa xuân tháng
2, sai Nội gia thư Hoàng Tá Thốn đưa Ô Mã Nhi về nước, dùng kế của Hưng Đạo
Vương, cho người giỏi bơi lội sung làm
phu thuyền, ban đêm dùi thuyền cho chìm, bọn Ô Mã Nhi chết đuối cả".
Sau chiến công thầm lặng này, Hoàng Tá Thốn được triều Trần phong tước và ban
thưởng rất hậu hĩnh.

Trở lại
kinh đô, mặc dù đất nước đã sạch bóng quân thù nhưng Hoàng Tá Thốn vẫn được vua
Trần cho làm tướng thống lĩnh các đội thủy binh, coi giữ 12 của biển, bảo vệ đường
duyên hải từ miền Trung trở vào. Ông cho sắm thêm thuyền, tuyển mộ thêm quân,
thường xuyên tổ chức tập luyện cho binh sỹ và thân chinh đi để kiểm tra, tổ chức
lại hệ thống đồn lũy ở ven biển các vùng Hải Phòng, Thanh hóa, Nghệ An để trấn
áp bọn cướp biển. Từ ngày làm tướng, coi giữ miền biển, Hoàng Tá Thốn đã tiêu
diệt bao đám cướp biển giữ yên cuộc sống thanh bình cho nhân dân. Những lần
quân Chiêm Thành sang quấy rối hải phận nước ta, ông đều trực tiếp chỉ huy và
đánh tan quân giặc. Cùng với tài bơi lội và đục thuyền của mình, ông đã huấn
luyện, truyền dạy cho bao binh sĩ, về sau trở thành kẻ thiện chiến trên sông nước.
Chính trong thời gian này, ông có điều kiện để về thăm lại quê hương. Thấy cảnh
xóm làng tan hoang, nhân dân nghèo khổ, vất vả vì chiến tranh và thiên tai gây
ra, ông đã bỏ tiền của, cùng các con trai của mình đưa cư dân ven biển Vạn Phần
lên bờ tìm đất mới để khai hoang, lập làng và dạy cho dân cách làm nông nghiệp.
Thôn Vạn Tràng, xã Long Thành nay chính là nơi khai dân lập ấp của dòng tộc
Hoàng Tá Thốn.
Trong một
lần đi tuần thú bờ biển ở Thanh Hóa đến Hà Trung không may bị lâm bệnh đột ngột
rồi qua đời vào ngày mồng một tháng Giêng năm Mậu Dần - 1338. Triều đình nghe
tin vô cùng thương tiếc đã cho thuyền rồng chở linh cữu về an táng tại quên nhà
làng Vạn Phần, xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu, đồng thời phong cho ông tước hiệu "Trung dũng bảo dục trung hưng, hộ quốc
tỉ dân, Sát Hải Đại tướng quân, Thiên Bồng nguyên soái chi thần" và ra
sắc chỉ, cấp kinh phí cho nhiều địa phương cùng lập đền thờ. Đền Đức Hoàng đã
được xây dựng trong hoàn cảnh ấy. Ông cũng được vua Trần Hiến Tông đã có thơ truy tặng như sau:
"Trời phò xã tắc để ngài sinh
Tuấn sĩ khôi ngô chói hiển vinh
Tiên nước
thủy cung chung tú khí
Tướng thần
nhân thế sáng hùng tinh
Băng vời
vạn dặm hùm ẩn núi
Lặn phá
ngàn thuyền bể vượt kình
Hà lộ
năm nao sao báo rụng
Trọn đem nghĩa tử báo triều
đình".
Tri ân công lao của Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá
Thốn và các vị tiên tổ các dòng họ đã có công với dân với nước như họ Trần, họ
Nguyễn, hàng năm, dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, nhân dân trong
vùng đã tổ chức lễ hội vào cuối tháng Giêng đầu tháng Hai Âm lịch, từ 29 tháng
1 đến 1 tháng 2, để tưởng nhớ công lao của Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn và cứ
hai năm lại tổ chức lễ hội lớn một lần. Lễ hội thu hút được đông đảo nhân dân
trong vùng và du khách thập phương tham gia để tri ân, thăm viếng. Lễ hội diễn
ra nhiều hoạt động văn hóa - thể thao phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc
như bơi thuyền, kéo co, đẩy gậy, cờ người, chọi gà, vật, bóng chuyền... cùng với
các trò chơi dân gian, các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống như tuồng,
múa rối, ca trù, ví dặm... Ngoài ra, vào ngày mùng 1 và ngày 15, nhân dân thường
đến đây dâng hương cầu xin sự bình an cho người thân của mình.